Trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam, đặc biệt là giai đoạn từ 1965 – 1971, đế quốc Mỹ đã dùng nhiều loại
chất diệt cỏ, làm trụi lá cây nhằm phá hoại ta về quân sự và kinh tế.
Ba loại chất độc hoá học chủ yếu đã được quân đội Mỹ dùng ở Việt Nam là:
Chất độc màu da cam, chất trắng dùng để phá huỷ rừng, chất xanh dùng để
phá hoại mùa màng.
Chất độc màu da cam có chứa dioxin, là một chất độc cực mạnh, rất bền
vững, khó phân huỷ. Do đó chúng tồn tại rất lâu trong môi trường, tích
luỹ sau nhiều lần sử dụng, làm cho đất và nước bị ô nhiễm nặng, cây rừng
bị huỷ diệt.
Tổng cộng đế quốc Mỹ đã rải 72 triệu lít
chất diệt cỏ (bao gồm 44 triệu lít chất độc màu da cam, 20 triệu lít
chất trắng, 8 triệu lít chất xanh) lên 1,7 triệu ha đất trồng và rừng ở
miền Nam Việt Nam, ít nhất có 12% diện tích rừng, 5% diện tích đất trồng
trọt bị rải chất độc màu da cam một hay nhiều lần.
Các chất diệt cỏ, làm trụi lá lần đầu tiên trong lịch sử loài người,
được dùng với quy mô lớn ở miền Nam Việt Nam đã gây ra hậu quả nghiêm
trọng cho môi trường sinh thái và con người.
Hàng triệu ha rừng ở nội địa và rừng ngập mặn ở ven bờ bị rải chất độc
màu da cam nhiều lần. Ngay sau khi bị rải chất diệt cỏ với nồng độ cao
lần thứ nhất, đã có 10 – 20% số cây thuộc tầng cao nhất (chiếm 40 – 60%
sinh khối của rừng) bị chết. Hậu quả là khí hậu ở tầng thấp bị thay đổi,
vì độ ẩm giảm, cường độ chiếu sáng tăng, nên các cây non dù có sống sót
cũng khó phát triển. Ðến mùa khô, lửa rừng do bom đạn lan đến diệt luôn
cả cây con. Tiếp theo mùa mưa đất bị xói mòn, thoái hoá dần, chỉ có một
số loài thực vật ưa sáng như chíp, chè vè, lau, tre, nứa, là những loài
cây có bộ rễ phát triển mạnh, thân ngầm khoẻ, chịu được khô cằn có thể
mọc được. Nhiều vùng rừng bị nhiễm chất độc quá nặng, cho đến nay, vẫn
chưa có cây gì mọc lại.
Cây rừng bị trụi lá và nước bị ô nhiễm cũng ảnh hưởng đến động vật.
Ðộng vật chết vì thiếu thức ăn, vì không có nơi trú ẩn, vì uống nước bị
nhiễm độc. Những con sống sót phải di chuyển tới những nơi khác, cho dù
điều kiện sống ở những nơi mới đó không hoàn toàn thuận lợi cho chúng.
Có thể nói rằng hệ sinh thái rừng mưa phong phú đã hoàn hoàn biến mất,
thay vào đó là hệ sinh thái nghèo kiệt xơ xác. Những nơi rừng mọc lại,
bụi lau, tre, nứa là nơi ẩn nấp tốt cho họ hàng nhà chuột. Thiên địch
của chuột là cầy, cáo còn lại rất ít, hơn nữa sức sinh sản của chúng
không thể so sánh được với sức sinh sản của chuột. Kết quả những nơi đó
chuột chiếm ưu thế. Tóm lại, chất diệt cỏ làm mất cân bằng sinh thái môi
trường.
Hệ thống rừng ngập mặn ở miền Nam, đặc biệt là rừng Sát (ở phía Ðông
Bắc thành phố Hồ Chí Minh) và rừng ở huyện Năm Căn (Minh Hải) bị phá huỷ
nặng nề. Nguồn cung cấp gỗ cho người không còn, động vật không có nơi
sinh sống, vai trò to lớn của rừng ngập mặn trong giữ đất, lấn biển bị
giảm sút.
Chất diệt cỏ còn tác động rất xấu đến con người. Nhân dân sống trong
vùng bị rải chất diệt cỏ thiếu ăn vì mùa màng, cây cối bị phá huỷ. Nhiều
dân thường, bộ đội sống trong vùng bị rải chất độc hoá học đã bị mắc
các bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư. Nhiều phụ nữ bị sảy thai, đẻ
non. Nguy hiểm hơn cả là chất độc màu da cam đã để lại di chứng cho đời
sau, con cái của những người bị nhiễm chất độc hoá học, mặc dù sinh ra
sau chiến tranh, thậm chí ở rất xa nơi có chiến sự, cũng mắc các bệnh
hiểm nghèo như câm, mù, điếc, tâm thần… hoặc có hình hài dị dạng. Sự
tồn tại của hàng loạt các trẻ em dị tật trong các vùng bị nhiễm chất độc
và trong các gia đình cựu chiến binh có bố hoặc mẹ từng công tác, chiến
đấu trong vùng bị nhiễm chất độc màu da cam, đang trở thành nỗi đau và
gánh nặng to lớn không chỉ riêng cho các em và gia đình, mà còn cho cả
xã hội. Ngay nay, Nhà nước, nhân dân Việt Nam cùng nhiều tổ chức tiến bộ
trên thế giới đã có những đồng cảm, quan tâm giúp đỡ nhất định đối với
các em bé bị dị tật bất hạnh này. Tuy nhiên, có thể nói là đã quá muộn.
Nói tóm lại, hậu quả của việc sử dụng chất độc màu da cam trong chiến
tranh hoá học của Mỹ ở Việt Nam là to lón, lâu dài, phức tạp, chưa được
nghiên cứu đầy đủ và chưa có cách nào khắc phục được hoàn toàn nhanh
chóng.